thảo dược trị gan nhiễm mỡ thảo dược doctor ninh thao duoc doctor le thảo dược thoái cốt hoàn
Được tạo bởi Blogger.

NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM ĐỂ HẠ MEN GAN

Gan là cơ quan chịu trách nhiệm loại bỏ độc tố và chuyển hóa thức ăn trong cơ thể. Mỗi ngày trôi qua, gan dường như phải chịu thêm nhiều áp lực do sự tích tụ các độc tố tại gan gây nên.

Điều này khiến gan rất dễ bị tổn thương. Men gan tăng cao là triệu chứng xuất hiện rất sớm, báo hiệu lá gan cần được chăm sóc. Để đưa men gan về ngưỡng an toàn, bạn nên làm theo các bước sau:

1. Không uống bia rượu
                             
Hay nói chính xác hơn là không dùng những đồ uống chứa cồn. Thông thường khi vào cơ thể, gan sẽ phải “xử lý” lượng chất cồn và đào thải chúng ra ngoài. Nhưng khi gan yếu hoặc lượng chất cồn quá nhiều thì điều ngược lại sẽ xảy ra, chất cồn sẽ “xử lý” gan, phá hủy tế bào gan. Do đó, trong cuộc sống hàng ngày, bạn nên hạn chế uống bia rượu để bảo vệ lá gan. Đặc biệt khi gan bị viêm, men gan cao, người bệnh cần phải kiêng tuyệt đối bia rượu để giúp gan hồi phục nhanh đặc biệt là với bệnh nhân gan nhiễm mỡ .

2. Trao đổi với bác sĩ, dược sĩ về loại thuốc bạn đang sử dụng

Một số thuốc có thể gây hại cho gan và làm tăng men gan. Có những thuốc có thể gây độc tố ngay ở liều đầu tiên, nhưng cũng có những thuốc do sử dụng trong thời gian kéo dài nên gây tổn thương gan. Do đó, nếu bạn phát hiện men gan cao khi đang dùng một loại thuốc nào đó, bạn nên trao đổi với bác sĩ để tìm ra nguyên nhân chính xác.

3. Hạn chế ăn thực phẩm chế biển sẵn

Thức ăn nhanh rất tiện dụng và ngày càng phổ biến. Tuy nhiên bạn không nên ăn chúng hàng ngày vì vấn đề sức khỏe. Thông thường trong các thực phẩm chế biến sẵn có chứa thêm chất bảo quản, chất phụ gia tạo màu, mùi vị…để tạo sức hấp dẫn cho khách hàng và bảo quản được lâu. Những chất hóa học tổng hợp này thường khó phân hủy và đào thải ra ngoài, nên tích tụ lại trong cơ thể, đặc biệt tại gan, gây nhiễm độc gan.

4. Tránh xa các độc tố môi trường (sơn tường, khói thuốc lá…)

Khói thuốc lá chứa nhiều độc tố không chỉ gây bệnh về phổi, mà còn hấp thu vào máu, chuyển hóa tại gan và gây tổn thương cho gan.

Trong thành phần của sơn (tường) có chứa nhiều dung môi hòa tan, dễ bay hơi trong không khí và nếu bạn thường xuyên hít phải loại dung môi này, nó có thể hấp thụ vào cơ thể, gây độc hại cho gan. Do đó, bạn nên học cách bảo vệ và tránh xa các độc tố này.
                                                                                                                    
5. Uống nhiều nước

Uống nhiều nước rất có lợi cho gan. Uống nước giúp đẩy nhanh quá trình tuần hoàn máu và tăng cường khả năng hoạt động của các tế bào gan, giúp quá trình đào thải các chất độc ra khỏi cơ thể nhanh hơn. Để đạt được hiệu quả giải độc cho gan, mỗi ngày nên uống 2 lít – 2,5 lít nước, chia thành nhiều lần trong ngày, mỗi lần chỉ nên uống từ 150 -200ml.

6. Giảm cân

Trong nhiều trường hợp tăng men gan là do lượng mỡ lắng đọng trong gan nhiều hơn bình thường, hay còn gọi là gan nhiễm mỡ. Theo nghiên cứu Dennis Lee, việc giảm 5 – 10 % cân nặng sẽ giúp bạn hạ thấp men gan và cải thiện sức khỏe nói chung. Bạn nên giảm tiêu thụ các thực phẩm giàu chất béo và tăng khẩu phần rau quả chứa nhiều vitamin giúp gan đào thải độc tố tốt hơn.

7. Tập thể dục hàng ngày

Luyện tập thể dục hàng ngày không chỉ giúp kiểm soát cân nặng tốt hơn, mà còn giúp bạn cải thiện tuần hoàn máu. Gan cần cung cấp máu và chất dinh dưỡng liên tục để hoạt động tốt hơn.


LÀM SAO ĐỂ BIẾT BỊ KHÁNG THUỐC ?

Chắc là tôi phải được điều trị bằng thuốc kháng virus một thời gian dài rồi!!...Các thuốc này có hiệu quả không và có thể bị virus đề  kháng không? và làm thế nào để biết được thuốc tôi đang sử dụng là bị đề kháng?
                                                         
Do phải điều trị thuốc kháng virus một thời gian dài nên virus có cơ hội tiếp xúc với thuốc kháng virus và như vậy là chúng có cơ hội bị đột biến để kháng thuốc. Do vậy nếu trong thời gian điều trị, xét nghiệm theo dõi virus là HBV-DNA bổng nhiên bị trở lại dương tính và lượng HBV-DNA bị tăng lên dần thì đây chính là dấu hiệu cho biết virus có khả năng kháng lại thuốc đang điều trị. Lúc này cần phải xét nghiệm để phát hiện xem thuốc có bị virus đề kháng không?. Hiện nay công ty Nam Khoa đã phát triển được phương pháp giải trình tự một đoạn gen 550bases ở vùng gene preS của virus để có thể phát hiện được rất nhiều điểm đột biến gây nên tình trạng virus viêm gan B đề kháng được lamivudine và adefovir là hai thuốc kháng virus hiện đang được sử dụng tại Việt Nam. Kỹ thuật này vượt trội hơn nhiều kỹ thuật khác là nhờ khả năng phát hiện được nhiều vị trí đột biến do vậy sẽ cung cấp cho bác sĩ nhiều thông tin hơn để cho quyết định chính xác hơn là liệu có nên thay đổi thuốc không.

Nói tóm lại, tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B tại Việt Nam trong dân số khá cao (>15%). Tuy nhiên không phải ai bị nhiễm virus viêm gan B đều cần phải được điều trị mà cần phải phân biệt họ có phải là người lành mang virus hay là người đang bị viên gan virus B mạn tính. Bác sĩ chỉ nên điều trị cho người đã xác định là bị viêm gan virus B mạn tính mà thôi, và xét nghiệm sinh học phân tử rất cần thiết để chỉ định trên bệnh nhân là xét nghiệm phát hiện và định lượng HBV-DNA. Khi đã điều trị cho bệnh nhân thì ngoài xét nghiệm định lượng HBV-DNA để theo dõi hiệu quả điều trị thì các xét nghiệm sinh học phân tử khác cũng rất cần thiết phải chỉ định trên bệnh nhân, ví dụ xét nghiệm phát hiện đột biến precore cũng rất cần phải cho trên bệnh nhân HBeAg âm tính, anti-HBeAb dương tính mà HBV-DNA vẫn còn dương tính để xác định bệnh nhân có bị đột biến precore hay không mà quyết định xem liệu có phải điều trị suốt đời cho bệnh nhân không. Ngoài ra xét nghiệm phát hiện các đột biến gây ra kháng thuốc cũng rất cần thiết phải được chỉ định nếu trong quá trình điều trị bổng nhiên HBV-DNA của bệnh nhân dương tính với số lượng tăng lên trở lại.

XÉT NGHIỆM HBV

Tôi biết được là hiện nay có nhiều nơi làm xét nghiệm phát hiện và định lượng HBV-DNA nhưng kết quả có khi lại khác nhau dù thử trên cùng một bệnh nhân!! Do vậy làm thế nào để tin tưởng được một kết quả xét nghiệm HBV-DNA vì đây là một xét nghiệm mà chi phí bệnh nhân phải trả cũng không phải là ít?
                                                                                                                                 
Đúng là như vậy. Xét nghiệm HBV-DNA là xét nghiệm dựa trên kỹ thuật PCR là một kỹ thuật hoàn toàn mở nên người làm xét nghiệm có thể tự pha thuốc thử để làm xét nghiệm mà không phải bị lệ thuộc và các kit xét nghiệm mua từ các hãng nước ngoài rất đắt tiền.

Tuy nhiên vì là hệ thống mở nên muốn kết quả xét nghiệm được chính xác thì người làm xét nghiệm phải thực hiện đủ các chứng để kiểm soát không cho các sơ sót xãy ra trong quá trình làm xét nghiệm và các chứng này phải hiển thị trên kết quả xét nghiệm. Với một xét nghiệm phát hiện HBV-DNA, kết quả phải hiển thị: (1) một chứng dương để chứng minh khâu khuếch đại trong quá trình xét nghiệm đủ nhạy cảm, (2) một chứng âm để chứng minh quá trình thao tác xét nghiệm không bị ngoại nhiễm gây ra kết quả dương tính giả, (3) một chứng nội tại trong chứng âm để chứng minh khâu tách chiết DNA từ mẫu thử đạt độ nhạy, (4) và đồng thời mẫu âm tính phải có chúng nội tại để chứng minh âm tính là thật sự âm tính chứ không phải là âm tính giả.

Đối với xét nghiệm định lượng HBV-DNA thì trong kết quả phải hiển thị được đường biểu diển chuẩn để chứng minh thao tác định lượng đạt chuẩn thông qua hệ số tương quan (R) của các mẫu chuẩn phải đạt trên 0.990 và hiệu quả phản ứng (E) phải đạt 90-105% và đồng thời chứng minh kết quả định lượng là được tính toán từ kết quả của các mẫu chuẩn được chạy song hành cùng với mẫu thử chứ không phải là được tính toán từ một công thức có sẵn.

Ngoài ra, nếu muốn kết luận một kết quả âm tính thì trong kết quả định lượng phải hiển thị được mẫu đó dương tính được với chứng nội tại để đảm bảo âm tính này là âm tính thật sự chứ không phải âm tính giả vì phản ứng khuếch đại bị ức chế.

VIÊM GAN SIÊU VI B

Tôi đi thử máu có kết quả dương tính HBsAg, vậy là có bị gì không?

HBsAg là kháng nguyên bề mặt của virus viêm gan B. Một người thử máu thấy HBsAg dương tính tức là người đó đang bị nhiễm virus viêm gan B
                                                              
Như vậy là có bị nguy hiểm không? có cần phải điều trị hay không?

Đa số người bị nhiễm virút viêm gan B thì sẽ có được đáp ứng miễn dịch bảo vệ, tức là sẽ tạo được kháng thể chống HBsAg (gọi là anti-HBsAg) và tiêu diệt được virus viêm gan B. Người đó khi thử máu sẽ dương tính anti-HBsAg. Tuy nhiên có một số người hệ miễn dịch lại không thể tạo ra được kháng thể bảo vệ này nên thử máu lúc nào cũng dương tính với HBsAg. Trong cơ thể của người đó có một sự đấu tranh qua lại giữa hệ miễn dịch và virus. Nếu hệ miễn dịch cân bằng được hay ưu thế hơn thì sẽ kiềm hãm không cho virus nhân bản được thành các virus hoàn chỉnh do vậy mà sẽ không có hay sẽ có rất ít virus hoàn chỉnh vào trong máu. Những trường hợp này được gọi là người lành mang virus, nếu thử máu sẽ thấy HBsAg dương tính nhưng dấu hiệu cho thấy có virus hoàn chỉnh là HBV-DNA, tức là acid nhân của virus, thường âm tính hay dương tính với số lượng (số copies) rất thấp (<105/ml).

Nhưng nếu hệ miễn dịch không kiềm hãm được mà để virus thắng thế thì chúng sẽ nhân bản được nhiều trong tế bào gan tạo ra được nhiều virus hoàn chỉnh vào máu của bệnh nhân và lúc này thử máu sẽ thấy HBsAg dương tính đồng thời có virus hoàn chỉnh hiện diện trong máu với số lượng cao phát hiện thông qua xét nghiệm HBV-DNA cho kết quả dương tính và số lượng vượt trên 105 copies/ml. Trong trường hợp này cần phải xác định gan người bệnh có bị tổn hại không, tức là người đó có bị viêm gan mạn tính không? Nếu xác định là bị viêm gan mạn tính thì phải được điều trị đặc hiệu.

Do vậy, nếu một người bị HBsAg dương tính, chúng ta cần phải cần phải thử máu xem HBV-DNA có bị dương tính không và số lượng bao nhiêu? Nếu HBV-DNA dương tính với số lượng quá 105/ml thì phải tiếp tục xem men gan (là thử nghiệm ALT hay SGPT) của họ có cao không? Nếu cao vượt ngưỡng 2 lần bình thường (ALT bình thường là 19 IU ở nữ và 33 IU ở nam) thì được coi là viêm gan mạn tính và phải điều trị. Nếu men gan bình thường thì cần phải chắc chắn là tế bào gan có bị thương tổn không thông qua xét nghiệm về hình thái tế bào gan như sinh thiết gan hay fibroscan. Nếu kết quả cho thấy có thương tổn thì họ cũng phải được xem là đang bị viêm gan mạn tính và phải cần điều trị đặc hiệu cho bệnh nhân dù men gan bình thường.

Như vậy là nếu bị HBsAg dương tính thì cần phải làm xét nghiệm HBV-DNA. Vậy thì xét nghiệm HBV-DNA là gì? Làm sao thực hiện được?

Virus viêm gan B có phần lõi của nó là DNA tức là acid nhân chứa đựng các thông tin di truyền của virus. Virus viêm gan B một khi nhân bản hoàn chỉnh thì sẽ tạo được một virus hoàn chỉnh tức là bên trong phần vỏ của nó (đó là kháng nguyên vỏ hay kháng nguyên bề mặt HBsAg) có chứa được phần lõi HBV-DNA. Xét nghiệm HBV-DNA tức là xét nghiệm tìm xem trong máu của bệnh nhân có mang virus hoàn chỉnh hay không. Đây là xét nghiệm sinh học phân tử, thông thường được thực hiện bằng kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction) là kỹ thuật nhân bản DNA trong ống nghiệm qua các chu kỳ nhiệt độ.

Trong xét nghiệm này, máu của bệnh nhân sau khi lấy sẽ được tách huyết thanh hay huyết tương và sau đó phòng thí nghiệm sẽ tách chiết DNA của virus trong các mẫu huyết tương và huyết thanh này để đưa vào một ống nghiệm rồi nhân bản các DNA này trong ống nghiệm thành hàng tỷ bản sao để phát hiện. Nhờ nhân bản lên từ một bản gốc thành hàng tỷ bản sao rồi mới phát hiện nên xét nghiệm này có độ nhạy cảm cực kỳ cao đủ sức để phát hiện DNA của virus có trong mẫu thử dù với số lượng rất thấp. Ngoài ra, ngày hôm nay với xét nghiệm PCR người ta còn có thể đếm được số lượng bản gốc DNA ban đầu có trong mẫu thử là bao nhiêu dựa vào kỹ thuật PCR định lượng, được gọi là qPCR hay real-time PCR. Về mặt nguyên tắc qPCR cũng giống như PCR nhưng có thêm một tính năng nữa là có thể đếm được có bao nhiêu bản gốc DNA trước khi được nhân bản nhờ một hệ thống quang học có khả năng phát hiện được phản ứng xãy ra trong ống nghiệm trong khi nhân bản xãy ra.

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ BỆNH UNG THƯ GAN

UNG THƯ GAN LÀ GÌ ?

- Ung thư gan (ung thư biểu mô tế bào gan, HCC) là gì?

- Ung thư gan (ung thư biểu mô tế bào gan) là một ung thư phát sinh từ gan.Nó còn được gọi là

ung thư gan nguyên phát hoặc hepatoma. Gan được tạo thành các loại tế bào khác nhau (ví dụ, ống mật, mạch máu, và lưu trữ các tế bào chất béo).

* Ung thư gan có thể được chia thành ung thư gan nguyên phát và ung thư gan thứ cấp:

+ Ung thư gan nguyên phát là ung thư bắt đầu (có nguồn gốc) trong gan.

+ Thứ cấp (di căn) ung thư gan có nghĩa là một ung thư bắt đầu trong một phần khác của cơ thể đã lây lan đến gan. Nhiều loại ung thư có thể lan đến gan. Thông thường nhất, ung thư ruột, tuyến tụy, phổi, dạ dày hoặc vú. Hành vi này, điều trị và triển vọng của bệnh ung thư gan thứ cấp thường khá khác nhau để ung thư gan nguyên phát.
                                                                                                                            
 *NGUYÊN NHÂN:

Do Viêm gan B lây nhiễm

Viêm gan B có thể có nguồn gốc từ các sản phẩm máu bị ô nhiễm hoặc kim được sử dụng hoặc tiếp xúc tình dục. Vai trò của nhiễm viêm gan B (HBV) virus gây ra ung thư gan cũng được thành lập. Như đã nói trước đó, tỷ lệ ung thư gan liên quan nhiễm virus viêm gan B mãn tính có nguy cơ cao.

Ngoài ra, bệnh nhân có virus viêm gan B có nguy cơ lớn nhất cho ung thư gan là nam giới với xơ gan vi rút viêm gan B (sẹo gan) và tiền sử gia đình ung thư gan.

Viêm gan B mãn tính gây ung thư gan như thế nào? Ở những bệnh nhân bị nhiễm hai virus viêm gan B mãn tính và ung thư gan, cơ cấu di truyền của virus viêm gan B thường được tìm thấy là một phần của cơ cấu di truyền của các tế bào ung thư. Người ta cho rằng khu vực cụ thể của bộ gen virus viêm gan B (mã di truyền) vào những cấu tạo di truyền của tế bào gan. Cơ cấu di truyền vi rút viêm gan B này sau đó có thể phá vỡ các cơ cấu bình thường trong tế bào gan, do đó gây ra các tế bào gan để trở thành ung thư.

Do Viêm gan C lây nhiễm:

-Virus viêm gan C (HCV) là khó khăn hơn để phát triển thành ung thư gan hơn so với viêm gan B. Nó thường đòi hỏi phải tiếp xúc trực tiếp với máu bị nhiễm, hoặc từ các sản phẩm máu hoặc kim tiêm bị ô nhiễm. HCV cũng được kết hợp với sự phát triển của ung thư gan. Trong thực tế, ở Nhật Bản, viêm gan siêu vi C là hiện diện trong 75% trường hợp ung thư gan. Virus viêm gan B, phần lớn các bệnh nhân viêm gan siêu vi C với ung thư gan có liên quan đến xơ gan (sẹo gan). Trong một số nghiên cứu tương lai của lịch sử tự nhiên của viêm gan C, thời gian trung bình để phát triển ung thư gan sau khi tiếp xúc với virus viêm gan C là khoảng 28 năm. Ung thư gan xảy ra khoảng tám đến 10 năm sau khi sự phát triển của xơ gan ở những bệnh nhân với viêm gan C. Một số báo cáo nghiên cứu tiềm năng châu Âu có tỷ lệ hàng năm (xảy ra theo thời gian) của ung thư gan ở bệnh nhân xơ gan viêm gan siêu vi C trong khoảng từ 1,4% -2,5 % mỗi năm.

-Ở bệnh nhân viêm gan siêu vi C, các yếu tố nguy cơ phát triển ung thư gan bao gồm sự hiện diện của xơ gan, tuổi cao phần lớn ở nam giới, phát triển lên mức một khối u máu, sử dụng rượu, và đồng nhiễm với virus viêm gan B. Một số nghiên cứu trước đó cho rằng kiểu gen vi rút viêm gan C 1b có thể là một yếu tố nguy cơ, nhưng nghiên cứu gần đây không hỗ trợ phát hiện này.

-Cách thức mà virus viêm gan C gây ra ung thư gan chưa được hiểu rõ.Không giống như virus viêm gan B, cách thức di truyền của virus viêm gan C không được đưa trực tiếp vào vật liệu di truyền của tế bào gan. Nó được biết đến xơ gan do mọi nguyên nhân là một yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của ung thư gan. Vì vậy, nó đã được lập luận rằng virus viêm gan C, gây ra xơ gan , là một nguyên nhân gián tiếp của ung thư gan.

-Mặt khác, có một số bệnh viêm gan C bị nhiễm virus cá nhân có ung thư gan mà không có xơ gan. Vì vậy, nó đã được cho rằng protein lõi của virus viêm gan C là thủ phạm trong sự phát triển của ung thư gan.Các protein lõi (một phần của siêu vi viêm gan C) được cho là cản trở quá trình tự nhiên của tế bào chết hoặc can thiệp với các chức năng của một gen ức chế khối u bình thường. Kết quả của những hành động này là các tế bào gan đi vào cuộc sống và tái tạo mà không có những hạn chế bình thường gây ung thư gan.

Do Rượu :

-Xơ gan gây ra bởi tiêu thụ rượu mãn tính là một hiệp hội phổ biến nhất của ung thư gan ở các nước phát triển. Trong thực tế, khám nghiệm tử thi, có đến nửa của người nghiện rượu trước đây vốn bị nghi ngờ có ung thư sẽ có bằng chứng sớm của ung thư tiềm ẩn bên trong gan. Nhiều người trong số những người này cũng bị nhiễm virus viêm gan C mãn tính.Ví dụ thông thường là một cá nhân xơ gan do rượu đã không còn uống rượu trong 10 năm và sau đó phát triển ung thư gan. Nó là hơi khác thường đối với một người nghiện rượu tích cực uống để phát triển ung thư gan.Điều gì xảy ra là khi uống rượu và dừng lại, các tế bào gan cố gắng để chữa lành bằng cách tái sinh (tái tạo). Đó là trong quá trình tái tạo hoạt động này, ung thư sản xuất thay đổi di truyền (đột biến) có thể xảy ra, điều này giải thích sự xuất hiện của ung thư gan sau khi uống rượu đã được dừng lại.

-Quan trọng hơn, nếu một người nghiện rượu không ngừng uống rượu, họ không sống đủ lâu để phát triển ung thư. Nghiện rượu những người đang tích cực uống có nhiều khả năng chết vì biến chứng ung thư liên quan đến bệnh gan do rượu (ví dụ như suy gan,). Thật vậy, bệnh nhân xơ gan do rượu, những người chết vì ung thư gan là khoảng 10 năm so với bệnh nhân chết vì các nguyên nhân không ung thư. Cuối cùng, như đã nói ở trên, rượu làm tăng nguy cơ phát triển ung thư gan ở bệnh nhân viêm gan C lây nhiễm virus hoặc vi rút viêm gan B.

Aflatoxin B1 :

-Aflatoxin B1 là các hóa chất tạo ung thư gan mạnh nhất được biết đến. Nó là một sản phẩm gọi là Aspergillus flavus , được tìm thấy trong thực phẩm đã được lưu trữ trong một môi trường nóng và ẩm. Nấm mốc này được tìm thấy trong thực phẩm như gạo, lạc, đậu tương, ngô và lúa mì. Nó được cho là gây ra ung thư bằng cách thay đổi sản xuất (đột biến) ở gen p53. Những đột biến này hoạt động bằng cách can thiệp quan trọng của gen ức chế khối u (ức chế) chức năng.

Thuốc, thuốc men và hóa chất :

-Một số hóa chất có liên quan với các loại ung thư được tìm thấy trong gan.Ví dụ: thorotrast - một tác nhân tương phản trước đây được sử dụng cho các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh, gây ra một bệnh ung thư của các mạch máu trong gan gọi là angiosarcoma gan. Ngoài ra, vinyl chloride - một hợp chất được sử dụng trong công nghiệp nhựa, có thể gây ra angiosarcomas gan xuất hiện nhiều năm sau khi tiếp xúc.

Hemochromatosis :

-Ung thư gan sẽ phát triển lên đến 30% bệnh nhân với di truyền hemochromatosis (một rối loạn trong đó có quá nhiều sắt được lưu trữ trong cơ thể, bao gồm trong gan). Bệnh nhân có nguy cơ cao nhất là những người bị xơ gan với hemochromatosis. Thật không may, khi xơ gan tạo ra thì hiệu quả loại bỏ các dư thừa sắt (điều trị cho hemochromatosis) sẽ không làm giảm nguy cơ phát triển ung thư gan.

Do Bệnh tiểu đường và béo phì :

-Trong thập kỷ qua, tỷ lệ mắc ung thư gan trên thế giới đã tăng đáng kể, song song với sự gia tăng bệnh béo phì. Mặc dù rất khó để tách ảnh hưởng của bệnh tiểu đường từ bệnh béo phì trên gan, cả hai điều kiện có thể gây ra tổn thương mãn tính và tích tụ mỡ trong gan .. Đây là một căn bệnh gọi là NASH. Bệnh gan nhiễm mỡ như thế này gây thiệt hại cho các tế bào gan cá nhân và có thể dẫn đến xơ gan ở một số người, do đó tăng nguy cơ ung thư gan.

Xơ gan :

-Hầu hết các loại bệnh xơ gan có tăng nguy cơ phát triển ung thư gan. Ngoài các điều kiện mô tả ở trên (viêm gan B, viêm gan C, rượu, và hemochromatosis), thiếu hụt alpha 1-trypsin , một tình trạng di truyền có thể gây ra bệnh khí thũng và xơ gan, có thể dẫn đến ung thư gan. Ung thư gan cũng liên quan chặt chẽ với tyrosinemia di truyền, bất thường ở trẻ em sinh hóa dẫn đến xơ gan sớm.

-Một số nguyên nhân gây xơ gan ít liên quan với ung thư gan hơn là các nguyên nhân khác. Ví dụ, ung thư gan hiếm khi được nhìn thấy với xơ gan ở bệnh Wilson (đồng trao đổi chất bất thường) hoặc xơ viêm đường mật mãn tính sẹo và thu hẹp của ống mật. Nó được sử dụng để được nghĩ rằng ung thư gan hiếm khi được tìm thấy trong xơ gan mật chính (PBC). Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng tần suất của bệnh ung thư gan trong PBC so với các hình thức khác của xơ gan.

TRIỆU CHỨNG :

-Không có triệu chứng cụ thể của ung thư gan, và trong thực tế, những dấu hiệu đầu tiên thường khó phát hiện và có thể bị nhầm lẫn với khác liên quan đến gan, xơ gan và chức năng gan. Đau bụng không phổ biến với ung thư gan và nếu có thường có nghĩa một khối u rất lớn hoặc sự tham gia của di căn gan. Ngoài ra, giảm cân không giải thích được hoặc sốt không giải thích được cảnh báo dấu hiệu của ung thư gan ở bệnh nhân xơ gan. Những triệu chứng này ít phổ biến hơn ở các cá nhân với ung thư gan bởi vì những bệnh nhân này thường được chẩn đoán ở giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, bất cứ khi nào sức khỏe tổng thể của một bệnh nhân xơ gan bị suy giảm, mọi nỗ lực cần được thực hiện có thể chuẩn đoán ung thư gan.

-Ví dụ, sự xuất hiện đột ngột của báng bụng (dịch bụng và sưng), vàng da (màu vàng da), hoặc cơ lãng phí mà không gây bệnh (kết tủa) các yếu tố (ví dụ như tiêu thụ rượu,) cho thấy khả năng của bệnh ung thư gan. Hơn nữa, ung thư có thể xâm nhập và ngăn chặn các tĩnh mạch cửa (tĩnh mạch lớn mang máu đến gan từ ruột và lá lách). Khi điều này xảy ra, máu sẽ đi con đường của sức đề kháng kém, chẳng hạn như thông qua các tĩnh mạch thực quản. Điều này làm tăng áp lực trong các tĩnh mạch, mà kết quả trong (mở rộng) tĩnh mạch giãn nở được gọi là thực quản dãn tĩnh mạch. Bệnh nhân sau đó là nguy cơ xuất huyết từ những đứt gãy của dãn tĩnh mạch vào đường tiêu hóa. Hiếm khi, bản thân bệnh ung thư có thể bị vỡ và chảy máu vào trong khoang bụng, kết quả là cổ trướng đẫm máu.

-Khám thực thể, một, mở rộng, đôi khi đấu thầu, gan là phát hiện phổ biến nhất. Ung thư gan là rất mạch máu (có chứa nhiều mạch máu) khối u. Như vậy, tăng lượng thức ăn máu vào động mạch gan (động mạch gan) và gây ra hỗn loạn dòng chảy của máu trong động mạch. Những biến động kết quả trong một âm thanh khác biệt trong gan (gan tin đồn) có thể được lắng nghe với một ống nghe trong khoảng một phần tư đến một nửa bệnh nhân ung thư gan. Bất kỳ dấu hiệu của bệnh gan tiến triển (ví dụ, báng bụng, vàng da, teo cơ) có nghĩa là một tiên lượng xấu. Hiếm khi, một bệnh nhân bị ung thư gan có thể trở thành bất ngờ vàng da khi khối u ăn mòn vào ống mật. Vàng da xảy ra trong tình huống này bởi vì cả hai tróc da của khối u vào ống và chảy máu cục máu đông trong ống có thể chặn các ống dẫn.

-Trong ung thư gan tiến triển, khối u có thể lây lan tại địa phương để các mô lân cận hoặc thông qua các mạch máu, ở những nơi khác trong cơ thể (di căn xa). Tại địa phương, ung thư gan có thể xâm lấn vào tĩnh mạch chảy gan (tĩnh mạch gan). Các khối u sau đó có thể ngăn chặn những tĩnh mạch, dẫn đến tắc nghẽn của gan. Tắc nghẽn xảy ra bởi vì các tĩnh mạch bị chặn không thể tiêu hao máu của gan. (Thông thường, máu trong các tĩnh mạch gan để gan chảy qua tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch lớn nhất chảy vào tim.) Ở những bệnh nhân châu Phi, khối u thường xuyên khối cava tĩnh mạch kém. Tắc nghẽn của các tĩnh mạch gan hoặc tĩnh mạch chủ dưới kết quả trong một lá gan bị sưng và hình thành lớn của cổ trướng. Trong một số bệnh nhân, như đã đề cập trước đó, khối u có thể xâm lấn vào tĩnh mạch cửa và dẫn đến vỡ dãn tĩnh mạch thực quản.

 *Các triệu chứng :

+ Đau bụng hoặc đau, đặc biệt là ở các góc phần tư phía trên bên phải

+ Mở rộng bụng

+ Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu

+ Vàng da (một sự đổi màu vàng của da và mắt)

 *Các dấu hiệu và kiểm tra

+ Sinh thiết gan cho thấy ung thư biểu mô tế bào gan.

+ Có thể có một khối u được hiển thị trên CT scan bụng .

+ Một quét gan có thể cho thấy sự bất thường.

+ Men gan ( xét nghiệm chức năng gan ) tăng cao.

+ Chụp PET CT .



ĐIỀU BỆNH NHÂN MEN GAN CAO NÊN LÀM

Gan đảm nhận nhiều chức năng vô cùng quan trọng trong cơ thể người : tiêu hóa, chuyển hóa, giải độc và đông máu. Sỡ dĩ gan có thể đảm nhận nhiều vai trò như vậy là nhờ ở gan có một hệ enzym (men) đa dạng và phức tạp, mỗi loại enzyme (men) đặc hiệu cho 1 vai trò nào đó. Enzyme gan là một loại protein giúp thúc đẩy một phản ứng sinh hóa đặc hiệu nào đó. Tăng men gan là một dấu hiệu của sự rối loạn ở gan và cần được theo dõi điều trị. Có thể là việc dùng thuốc hay 1 bệnh nào đó cũng gây nên triệu chứng tăng men gan

Làm sạch gan

Có nghĩa là ăn uống để cân bằng lượng men gan và bảo vệ chức năng gan. Hãy giảm các loại thức ăn đóng hộp có chứa nhiều đường như nước ngọt, bánh mì trắng, bánh ngọt. Hạn chế lượng chất béo bão hòa từ các món chiên xào, dầu mỡ động vật … cũng giúp công việc của gan được “nhẹ nhàng” hơn.

Tỏi
                                                            
– chứa nhiều chất chống oxi hóa tên là Allicin giúp giảm lượng chất độc hại tích tụ trong gan

Tăng lượng chất xơ trong bữa ăn và đừng quên dùng Tỏi – chứa nhiều chất chống oxi hóa tên là Allicin giúp giảm lượng chất độc hại tích tụ trong gan. Những món ăn chứa nhiều vitamin B như trứng, bông cải, rau bina rất có lợi cho một lá gan khỏe. Nên uống nhiều nước để giúp dễ tống chất độc ra khỏi gan.

Tránh xa thức ăn “độc”

Gan được xem như là màng lọc chất độc cho cơ thể. Mỗi phút, lượng máu được lọc qua gan là 1.4 lít. Nếu trong máu chứa nhiều chất kháng sinh và hormone sẽ khiến gan phải làm việc “cực nhọc” hơn để lọc các độc tố đó ra khỏi máu. Để giảm tải cho gan, nên quan tâm kĩ đến nguồn gốc các loại thực phẩm mà bạn sử dụng. Các chất kháng sinh thường được thêm vào trong thức ăn chăn nuôi gà, heo, bò nên các loại thịt này , thậm chí cả sữa, cũng chứa hàm lượng kháng sinh rất cao. Sữa đậu nành là 1 giải pháp thay thế an toàn mà lại bổ dưỡng.

Hãy uống nước ép

Nước ép trái cây vừa giúp giữ dáng lại còn có tác dụng tăng cường sức khỏe cho gan vì tác động giải độc hỗ trợ cho chức năng gan. Nước ép chứa nhiều vitamin, khoáng chất và chất chống oxi hóa – làm giảm nguy cơ viêm nhiễm ở gan và tăng sức đề kháng cho gan. Nước ép táo là 1 ví dụ điển hình, chứa nhiều pectin nên giúp loại bỏ các kim loại nặng trong đường ruột và gan. Nước ép dưa leo lại tạo ra sự cân bằng pH nội sinh và giúp thanh lọc thân nhiệt.



ĐÔNG Y CHỮA TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI

Nhiều nghiên cứu hiện nay cho biết một số thảo dược lợi thấp thanh nhiệt và nhuận gan giải độc của Đông y có hàm lượng cao những chất chống oxy hoá có thể đáp ứng tốt việc điều trị viêm gan siêu vi do tác dụng làm giảm quá trình peroxide hoá lipid ở gan và tăng cường chức năng gan.

Triệu chứng.

Viêm gan siêu vi là một loại bệnh nhiễm trùng làm suy giảm chức năng của Can, Tỳ. Bệnh thường biểu hiện qua các triệu chứng hay mệt mỏi, chán ăn, giảm cân, đau hạ sườn phải, sốt nhẹ, nước tiểu vàng sẩm, có kèm theo vàng da, vàng mắt hoặc không. Nếu không được điều trị, bệnh có thể dẫn đến xơ gan hoặc ung thư gan.

Nguyên nhân.

Viêm gan siêu vi thuộc phạm vi các chứng hoàng đản của y học cổ truyền. Ở những người cơ thể suy nhược, ăn uống không hợp lý, tình chí không thoải mái, Can không được sơ tiết thường làm tổn thương Tỳ Vị. Tỳ Vị hư nhược, hàn thấp hoặc thấp nhiệt uất kết ở trung tiêu lại gặp phải thời khí ôn dịch dễ dẫn đến viêm gan. Theo các nhà khoa học, có nhiều loại siêu vi gây ra viêm gan. Nguy hiểm nhất là 2 loại siêu vi B và C. Tuy nhiên, không nhất thiết người mang mầm bệnh sẽ dẫn đến viêm gan. Hiện nay, người ta ước tính có khoảng 3% dân số thế giới mang mầm bệnh siêu vi gan, 90% số người trong tỷ lệ nầy mang trong mình virus viêm gan C nhưng không được phát hiện.

Những người này không có bất cứ biểu hiện gì của bệnh cho đến khi hàng chục năm sau tình cờ qua một xét nghiệm nào đó cho thấy có sự hiện diện của mầm bệnh hoặc khi bệnh phát triển do cơ thể suy yếu. Thực tế nầy cũng phù hợp với quan điểm của y học cổ truyền trong việc phân định 2 yếu tố thấp nhiệt uất kết và thời khí ôn dịch đối với nguyên nhân gây ra viêm gan. Yếu tố thời khí ôn dịch liên quan đến các loại siêu vi. Nói cách khác, bệnh chỉ phát triển khi hội đủ 2 yếu tố thấp nhiệt và siêu vi. Thấp nhiệt là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của siêu vi.

Cách chữa.

Kiện Tỳ, lợi thấp. Hàn có thể sinh thấp, thấp có thể sinh nhiệt. Hàn thấp hay thấp nhiệt tuỳ vào cơ địa, yếu tố chánh yếu vẫn là do thấp. Vì“Tỳ ố thấp”, nên Tỳ và thấp là tương quan giữa chính khí và tà khí trong bệnh viêm gan. Kiện Tỳ để nâng cao chính khí chống lại tà khí. Mặt khác, cần lợi thấp để thanh giải tà khí và bảo vệ khí hoá của Tỳ Vị. Tuỳ theo sự mạnh yếu của chính khí, kiện Tỳ có thể chỉ là một vài vị thuốc cay, ấm để kích thích tiêu hoá như hậu phác, vỏ bưởi, gừng hoặc thêm một số vị để bổ khí như nhân sâm, hoàng kỳ, đinh lăng, ngũ vị tử. Lợi thấp thường dùng những vị thuốc lợi tiểu hoặc tả hạ để hoá thấp theo 2 đường đại tiểu tiện.

Nhuận gan, giải độc. Nhuận gan, giải độc vừa nâng cao chức năng của gan vừa ngăn chận sự phát triển của tà độc. Theo các nhà khoa học, những tác nhân gây viêm gan hoặc hoại tử tế bào gan thường bắt đầu từ sự gia tăng quá trình peroxide hoá lipid ở màng tế bào. Do đó, bảo vệ gan phải bắt đầu từ những chất chống oxy hoá có tính năng ức chế qúa trình nầy. Những chất chống oxy hoá có rất nhiều trong các loại rau, quả, củ, nhất là những rau quả có vị chát, đắng, rau quả sậm màu hoặc màu vàng, tím, đỏ.

 Theo hướng nầy, trong những năm gần đây, người ta đã nghiên cứu và phát hiện được nhiều loại rau, củ có tác dụng nhuận gan giải độc của Đông y như nhân trần, tảo spirulina, rau om, chó đẻ răng cưa. . . có hàm lượng chất chống oxy hoá hướng gan có khả năng ức chế rất mạnh quá trình peroxide hoá ở gan. Ngoài ra, những chất nầy còn làm gia tăng hàm lượng GSH ở gan làm giảm hoạt độ các enzym SGOT và SGPT trong những trường hợp viêm gan siêu vi đang tiến triển. Cơ chế nầy có thể giải thích được những trường hợp chữa khỏi viêm gan từ kinh nghiệm dân gian bằng cách chỉ dùng một hoặc phối hợp của vài vị thuốc nam như nhân trần, chó đẻ răng cưa, rau om, lá gai, củ móp gai, quả dứa dại. Phần lớn những vị nầy thường có vị đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, lợi mật, sát trùng, tiêu viêm, giải độc. Thuốc có thể lợi tiểu để trừ thấp, có thể nhuận gan giải độc lại cung cấp được nhiều chất chống oxy hoá để nâng cao sức miễn dịch và bảo vệ tế bào gan.